Con đường nào để ngành Xi măng tiến tới sản xuất xanh? (P1)
28/09/2024 11:23:39 AM
Ngành công nghiệp xi măng là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính tương đối lớn. Mặc dù khó xác định chính xác lượng khí nhà kính đến từ các nguồn riêng lẻ và so sánh với tổng lượng khí nhà kính, nhưng các ước tính đều đồng ý rằng, ngành công nghiệp xi măng thải ra ít nhất khoảng 5% lượng khí nhà kính (có nhiều nghiên cứu công bố 8%). Điều này khiến cho ngành công nghiệp xi măng trở thành một trong 5 nguồn khí nhà kính hàng đầu và là nguồn phát thải công nghiệp lớn thứ hai sau ngành sản xuất thép.
Xi măng đã được sản xuất như thế nào?
Xi măng portland về cơ bản là xi măng canxi silicat, được sản xuất bằng cách nung đến nóng chảy (nhiệt độ khoảng 1.450 – 1.500°C) hỗn hợp đá vôi và đất sét đã được nghiền mịn. Thành phần hỗn hợp vôi – sét này thường được hiệu chỉnh bằng cách thêm silicat và oxit sắt trước khi được nghiền mịn và đồng nhất.
Xi măng canxi silicat đầu tiên được sản xuất bởi người Hy Lạp và La Mã. Họ đã phát hiện ra rằng tro núi lửa, nếu được nghiền mịn và trộn với vôi và nước, sẽ tạo ra vữa cứng, có khả năng chống chịu mọi hiệu ứng thời tiết. Phản ứng thủy hóa này được gọi là phản ứng puzolan và là cơ sở cho sự đóng góp vào việc phát triển cường độ của bê tông.
Vào giữa thế kỷ thứ 18, John Smeaton đã phát hiện ra rằng một số loại vôi có chứa hàm lượng silica và alumina thích hợp, có đặc tính thủy lực. Nghĩa là chúng chứa canxi silicat và aluminat hoạt tính, có thể phản ứng với nước để tạo ra hydrat bền, có khả năng chống lại tác động của nước. Smeaton đã sử dụng vật liệu này làm vữa xây dùng để xây dựng ngọn Hải đăng Eddystone vào năm 1759.
Thuật ngữ “portland” được sử dụng vì sản phẩm sau đông cứng có màu sắc tương đồng với màu đá ở bán đảo Portland thuộc vùng Dorset của Vương Quốc Anh. Joseph Aspdin không phải là người đầu tiên sản xuất xi măng canxi silicat nhưng bằng sáng chế của ông đã được ưu tiên sử dụng thuật ngữ “xi măng portland”.
Xi măng được sản xuất trong nửa đầu thế kỷ 19 có thành phần khoáng chất không giống như xi măng portland hiện đại, vì nhiệt độ nung không đủ cao nên không thể tạo thành tricalcium silicate (C3S).
Khoáng chất canxi silicate duy nhất được tạo thành trong lò thời kỳ đó là dicalcium silicate (C2S). Khả năng hoạt hoá và phản ứng thủy lực của khoáng chất C2S thấp hơn nhiều so với khoáng chất C3S.
Clinker xi măng portland chứa 4 khoáng chất, C3S và C2S là hai khoáng chất chính chủ yếu trong clinker (chiếm khoảng 75%), chúng đóng vai trò chính trong việc phát triển cường độ, quyết định các đặc tính về cấu trúc và độ bền lâu dài của xi măng portland. Tuy nhiên, phản ứng giữa CaO (vôi từ đá vôi) và SiO2 (silica từ cát) rất khó thực hiện, ngay cả ở nhiệt độ nung khá cao. Sự kết hợp hóa học được tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều nếu có một lượng nhỏ alumina và oxit sắt (thường là 5% Al2O3 và 3% Fe2O3), vì chúng giúp tạo thành pha nóng chảy mà qua đó CaO và SiO2 có thể hòa tan vào pha nóng chảy đó rồi phản ứng với nhau để tạo ra khoáng chất C3S và C2S.
Sự ra đời của lò quay vào cuối thế kỷ 19 và đồng thời đã có những tiến bộ trong công nghệ, cho phép sản xuất ra sản phẩm đồng nhất, nhiệt độ đủ cao liên tục để đảm bảo hình thành lượng đủ lớn khoáng canxi silicat chủ yếu là C3S.
Việc kiểm soát thành phần, chất lượng clinker đã tiến triển từ kiểm soát thử vi sai sang kiểm soát chính xác thành phần hóa bằng các kỹ thuật huỳnh quang tia X, góp phần hoàn thiện công nghệ, tăng năng suất và chất lượng clinker sản xuất.
CO2 đã được hình thành như thế nào trong sản xuất xi măng?
Lượng khí thải carbon dioxide từ quá trình sản xuất xi măng được phân loại từ bốn nguồn chính.
1. Nguồn CO2 lớn nhất từ nguyên liệu chính, do đá vôi được nung nóng và khử cacbon để tạo thành vôi. CO2 có nguồn gốc từ vật liệu đá vôi chiếm tới 50% lượng khí thải.
2. Nguồn CO2 lớn thứ hai là từ nhiên liệu được sử dụng để cung cấp năng lượng nhiệt cần thiết cho quá trình nung luyện clinker. Nhiên liệu chính sử dụng cho quá trình nung luyện clinker xi măng có thể là dầu FO, DO hoặc than đá được nghiền mịn. Nguồn từ nhiên liệu đốt cháy chiếm 40%.
3. Nguồn CO2 từ sử dụng điện chiếm 5%.
4. Phương tiện vận tải chiếm 5%.
Như vậy, các nguồn chính sinh ra carbon dioxide trong sản xuất xi măng là quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch và nung vôi. Các loại nhiên liệu phổ biến nhất là than, cốc dầu mỏ, dầu nhiên liệu và khí đốt tự nhiên. Hiện nay, ngành công nghiệp xi măng dựa trên 3 yếu tố cơ bản để lựa chọn nhiên liệu là: chi phí, chất lượng sản phẩm và tác động đến môi trường.
Nhiên liệu đáp ứng tốt nhất ba yêu cầu cơ bản này sẽ là lựa chọn được ưu tiên. Điều quan trọng cần lưu ý là các yếu tố như chi phí cho hệ thống nung mới, lượng lưu trữ và tình trạng sẵn có của nhiên liệu tại địa phương cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định lựa chọn.
Trong quá trình nung trong lò, đá vôi trong nguyên liệu thô sẽ bị phân hủy và CaO, CO2 sẽ được hình thành. Tỷ lệ canxi oxit (CaO) trong clinker thường nằm trong khoảng từ 64 – 67%, phần còn lại bao gồm các oxit sắt, oxit silic và oxit nhôm. Lượng CO2 được tạo ra sẽ bị thay đổi tùy theo hàm lượng đá vôi có trong bột liệu thô.
Một ví dụ về cân bằng khối lượng để sản xuất một tấn clinker xi măng được thể hiện như sau:
Vào lò | Ra lò |
1.530 kg bột liệu | 1.000 kg clinker |
78 kg dầu nhiên liệu | 668 kg CO2 |
1.135 kg không khí cháy | 850 kg N2 |
1,0 kg khí vận/c bột liệu | 226 kg O2 |
Những nguồn phát thải CO2 khác trong nhà máy xi măng, chẳng hạn như từ điện và thiết bị di động, vận chuyển. Tuy nhiên, chúng chỉ chiếm một phần nhỏ (<10%) trong tổng lượng CO2 tạo ra trong quá trình sản xuất clinker xi măng.
(Còn nữa)
Trong đó, một số loại sản phẩm vật liệu xây dựng quan trọng như: xi măng, gạch gốm ốp lát, kính xây dựng, sứ vệ sinh, sắt thép… đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tổng giá trị doanh thu hàng năm ngành Vật liệu xây dựng ước đạt 47 tỷ USD, chiếm khoảng 11% GDP quốc gia, đặc biệt ngành công ngiệp vật liệu xây dựng đã đầu tư và xử lý rác thải trong các lò nung sản xuất, góp phần bảo vệ môi trường. Hiện nay, ngành Vật liệu xây dựng Việt Nam tiếp tục tập trung trong việc nghiên cứu phát triển các chủng loại vật liệu xây dựng mới, tính năng cao như: vật liệu xây dựng xanh; vật liệu xây dựng ứng dụng nghệ nano trong sản xuất; công nghệ in 3D.
Tại Hội thảo, các đại biểu tích cực thảo luận các nội dung và đề xuất giải pháp phát triển ngành Vật liệu xây dựng Việt Nam hiện đại và bền vững, như: Thực trạng và giải pháp phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam; Nhìn lại 4 thập kỷ phát triển của ngành Xi măng Việt Nam; Triển khai kinh tế tuần hoàn tại Tổng Công ty Xi măng Việt Nam; Giải pháp đồng xử lý chất thải tại INSEE Việt Nam hướng tới Net Zero; Các sản phẩm carbon thấp của SCG Việt Nam; Công nghệ mới trong đa dạng hóa sản xuất sản phẩm xi măng sợi; Tái chế tro xỉ, thạch cao của ngành công nghiệp nhiệt điện than và phân bón hóa chất – ứng dụng sản xuất vật liệu xây dựng xanh, bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn; Cầu cạn sử dụng bản bê tông cốt thép trên cọc ly tâm PRC; Công nghệ sản xuất và ứng dụng sàn rộng dự ứng lực; Nghiên cứu và ứng dụng bê tông siêu tính năng ở Việt Nam.
Theo Hiệp hội Xi măng và Bê tông Toàn cầu (GCCA), lĩnh vực xây dựng sản sinh ra khoảng 2,5 tỷ tấn CO₂/năm với khả năng sẽ tăng lên 3,8 tỷ tấn/năm vào năm 2050 nếu không có những cố gắng giảm nhẹ CO₂ do nhu cầu bê tông ngày càng tăng. Xấp xỉ 60% lượng khí phát thải này có nguồn gốc từ quá trình khử carbon trong đá vôi với 40% lượng còn lại là từ quá trình đốt các nhiên liệu được sử dụng trong các dây chuyền sản xuất clinker. Ngoài ra, tiêu thụ điện năng cũng gián tiếp góp phần vào lượng phát thải khí CO₂ khi không được tái tạo.
Chuỗi giá trị trong lĩnh vực xây dựng, bao gồm cả 5Cs (clinker, xi măng, bê tông, xây dựng và carbonat hóa) của Cembureau, có tiềm năng đáng kể trong việc khử giảm phát thải khí CO₂ phấn đấu hướng tới trung hòa carbon. Việc đạt được mục tiêu này đòi hỏi sự nỗ lực chung từ tất cả các cổ đông lấy sản xuất clinker và xi măng làm trọng tâm.
Nâng cao hiệu suất nhà máy/cải thiện chất lượng clinker
Tương tự, việc nâng cao chất lượng clinker có thể mang lại các mức khử giảm CO₂ đáng kể. Clinker có chất lượng tốt hơn có nghĩa là nhu cầu sử dụng ít hơn mà vẫn đạt được cường độ xi măng tương tự. Việc giảm 3% hệ số clinker trong kịch bản nhà máy tiêu chuẩn của FCT sẽ giảm lượng khí phát thải CO₂ đi khoảng 34.000 tấn/năm. Kết hợp điều này với việc tăng hiệu suất lên 3% mang lại tổng lượng khử giảm xấp xỉ 47.000 tấn/năm.
Sử dụng nhiên liệu thay thế
Điều này nghe có vẻ không đúng rằng việc sử dụng nhiên liệu thay thế (AF) sẽ giảm được lượng khí phát thải CO₂, vì quá trình đốt chúng cũng giải phóng ra CO₂. Nhưng điều này là thật, việc sử dụng AF ngăn ngừa việc tiêu thụ thêm nhiên liệu hóa thạch và lượng khí phát thải có liên quan. AF, thường là phụ phẩm của các ngành công nghiệp khác, có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch, giảm thiểu tổng lượng khí phát thải carbon. Bằng cách này, carbon từ AF một lần nữa được tái sử dụng sau các mục đích chính của chúng, thay vì sử dụng một nguồn carbon hoàn toàn mới lấy từ nhiên liệu hóa thạch.
Việc sử dụng AF là một công nghệ đã phát triển với các nhà máy ở Châu Âu có thể đạt tới 90% mức thay thế bằng AF dạng rắn và lên tới 100% khi xem xét đến hỗn hợp AF rắn và lỏng. Chi phí chuyển đổi một nhà máy sang mức thay thế cao thay đổi dựa trên các yếu tố như thiết kế nhà máy, thời gian lưu của thiết bị hiện có, chất lượng của AF mà có thể có nguồn gốc/được chuẩn bị và công nghệ của thiết bị đốt, cùng các yếu tố khác.
Đối với lò tiêu chuẩn nói đến trong bài viết này, việc tăng 10% mức tỷ lệ thay thế nhiệt khi thay thế than bằng RDF có thể giảm được lượng khí phát thải CO₂ khoảng 6.000 tấn/năm. Việc đạt được mức tỷ lệ thay thế 90% sẽ giảm được lượng khí phát thải xấp xỉ 51.000 tấn/năm. Đầu tư vào các nghiên cứu CFD đối với calciner và các hệ thống đốt tiên tiến như vòi đốt lò Turbu-FlexTM của FCT là các khoản đầu tư tương đối thấp có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển đổi này.
Thay thế clinker bằng vật liệu kết dính phụ trợ
Nguyên liệu có các đặc tính kết dính khi được trộn lẫn với nước hoặc các nguyên liệu khác, được biết đến là vật liệu kết dính phụ trợ (SCMs), đã được sử dụng trong vài thập kỷ nay làm vật liệu thay thế clinker. Tro bay từ các nhà máy điện chạy bằng than, xỉ từ quá trình luyện kim và vật liệu puzolan tự nhiên là các ví dụ phổ biến của SCMs. Tuy nhiên, tính sẵn có của chúng đang giảm đi, thúc đẩy việc tìm kiếm các lựa chọn thay thế, với đất sét nung đang là sự lựa chọn đáng chú ý đã được sử dụng trong xi măng hơn 40 năm qua ở một số quốc gia, ví dụ như Brazil.
Đối với lò tiêu chuẩn đề cập đến trong bài viết này, việc thay thế 40% clinker bằng đất sét nung có thể giảm được lượng khí phát thải khoảng 347.000 tấn/năm.
Sử dụng hydro
Xem khí hydro là một loại nhiên liệu không có carbon, thì nên cân nhắc ý tưởng khử giảm lượng khí phát thải CO₂. Cho đến nay, việc sử dụng hydro trong sản xuất xi măng đã bị hạn chế đến lượng rất nhỏ, trong phạm vi tỷ lệ phần trăm một con số, từ 0,2 – 3%. Hạn chế này nằm ở công đoạn sản xuất hơn là ở công đoạn đốt cháy, đặc biệt là khi xem xét đến việc sản xuất hydro thân thiện với môi trường.
Ngày nay, những lượng lớn (trên 99%) hydro sản xuất ra là từ quá trình tinh lọc khí tự nhiên mà giải phóng ra một lượng CO₂ đáng kể vào trong khí quyển. Nếu trường hợp này xảy ra, việc đốt khí tự nhiên trực tiếp trong lò có tác động môi trường thấp hơn. Hơn nữa, hydro vẫn đắt tiền hơn so với các nhiên liệu khác và không có sẵn rộng rãi cho ngành này, do vậy không phải là giải pháp lựa chọn khả thi lúc này cho sản xuất xi măng.
Nếu như hydro thân thiện với môi trường (ví dụ, khi được sản xuất thông qua quá trình điện phân nước sử dụng năng lượng mặt trời hoặc năng lượng gió) trở nên sẵn có với mức giá bán chấp nhận được trong tương lai, thì sẽ có một số thách thức khi sử dụng hydro trong sản xuất xi măng ở quy mô lớn. Điều này sẽ bao gồm cả độ phát xạ nhiệt của ngọn lửa bị giảm đi, lượng khí phát thải NOx và hạ tầng cơ sở phân phối tăng lên. Tuy nhiên, những rào cản này có ý nghĩa chỉ khi đạt được mức thay thế với \ hydro trên 50%. Đã có những khoản đầu tư quan trọng để khiến cho quá trình sản xuất hydro trở nên hợp lý hơn, với những lượng lớn hơn và sạch hơn. FCT đã viết một bài báo đầy đủ trên Tạp chí World Cement tháng 11/2022 bàn luận về những khía cạnh xung quanh việc sử dụng hydro trong các lò clinker.
Vòi đốt của FCT hiện được bàn giao cho sử dụng hydro, sẵn sàng cho bất cứ khi nào hydro xanh và hợp lý hơn có sẵn. Đối với lò tiêu chuẩn nói đến trong bài viết này, việc thay thế 50% than bằng hydro sẽ giảm được lượng khí phát thải CO₂ khoảng 29.000 tấn/năm.
Đốt nhiên liệu oxy
Đốt nhiên liệu oxy là một công nghệ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu lượng khí phát thải CO₂ trong ngành xi măng. Trong lò xi măng truyền thống, nhiên liệu được đốt trong không khí, mà có chứa khoảng 21% lượng khí oxy và 78% lượng khí nitơ. Khí nitơ trong không khí không đóng góp gì vào quá trình đốt và thay vào đó lại kết thúc trong khí thải, làm loãng hàm lượng CO₂. Mặt khác, việc đốt nhiên liệu oxy liên quan đến quá trình đốt nhiên liệu với khí oxy thuần khiết thay vì không khí, phần hồi lưu của CO₂ từ khí thải trở lại máy làm nguội. Phương pháp này tạo ra quá trình đốt hiệu quả hơn và mạnh hơn cũng như giảm được đáng kể lượng khí phát thải nitơ oxit (NOx). Trong khi quá trình đốt nhiên liệu oxy không giảm được lượng khí phát thải CO₂, nó không tạo ra khí thải giàu CO₂, làm cho nó trở nên dễ dàng hơn và hiệu quả hơn về chi phí để thu gom và tồn trữ hoặc sử dụng.
Vòi đốt FCT được thiết kế dành riêng cho vận hành dưới các điều kiện đốt nhiên liệu oxy với các điều chỉnh nhỏ.
Điện hóa xanh, CCUS và các giải pháp khác
Đã có một số sáng kiến trong lĩnh vực điện hóa trực tiếp và sử dụng các chất mang nhiệt để thay thế việc đốt cháy trong các quá trình thiêu kết clinker. Tuy nhiên, chúng vẫn còn đang trong giai đoạn phôi thai khi so sánh với các giải pháp thay thế đã bàn luận đến ở đây. Những thách thức chính là phải thiết lập các thiết bị tin cậy và các nguyên liệu có thể truyền 1450°C vào clinker, một nguồn năng lượng xanh tin cậy cho cả năm và một lượng lớn MW cần thiết cho quá trình thiêu kết clinker. Đối với quá trình đốt, ví dụ 100 MW có thể đạt được dễ dàng và không tốn kém, trong khi điện hóa xanh, ví dụ từ năng lượng mặt trời, sẽ yêu cầu vài km² các tấm pin mặt trời, một trạm điện và toàn bộ các hoạt động bảo trì liên quan tới thiết bị này.
Kết luận
Ngành Xi măng đang phải đối mặt với những vấn đề quan trọng trong việc khử giảm lượng khí phát thải CO₂, nhưng một số phương án đã có có thể đạt được các mức khử giảm đáng kể, mỗi phương án đều có những thách thức riêng, về chi phí và khả năng khử giảm CO₂.
Điều quan trọng cần lưu ý rằng giải pháp để có thể trung hòa CO₂ chính là sự kết hợp giữa các phương pháp khác nhau.
Mỗi nhà máy hiện đang ở giai đoạn khác của quá trình khử carbon, mỗi nhà máy có những tình huống đặc biệt yêu cầu phải có các giải pháp tùy chỉnh. Ví dụ, sẽ không có ý nghĩa gì khi một nhà máy chỉ đầu tư vào việc đốt đất sét nung hoặc hydro, trong khi hiệu suất nhà máy và việc sử dụng AF chưa đạt được mức cao nhất.
Bằng cách nâng cao hiệu suất nhà máy sử dụng AF thay thế clinker bằng SCMs và khai thác khả năng sử dụng hydro, cùng với các tiến bộ và công nghệ mới ra đời, ngành này có thể hướng tới một tương lai bền vững.
Công ty cổ phần Vissai Ninh Bình cần tuyển :
Công nhân vận hành nghiền xi : 10 người
Công nhân vận hành đóng bao :10 người
Công nhân vận hành bốc xếp :10 người….
CHi tiết thông tin tuyển dụng như sau :
Hiện, cả nước đã có 34 dây chuyền đầu tư lắp đặt và đưa vào hoạt động hệ thống phát điện nhiệt dư với tổng công suất khoảng 248 MW, chủ yếu là các nhà máy xi măng của khối doanh nghiệp tư nhân và liên doanh. Lượng phát thải tại Việt Nam khoảng 60.000 tấn rác/ngày, trong đó có 60% là rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên, rác thải sử dụng làm nhiên liệu thay thế trong các nhà máy xi măng hiện nay chủ yếu là rác thải công nghiệp. Cả nước vẫn chưa có nhà máy xi măng nào sử dụng rác thải sinh hoạt để đốt.
Theo báo cáo của Vụ Vật liệu Xây dựng, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển ngành Xi măng và tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính.
Đại diện của VICEM khẳng định, mục tiêu của chiến lược áp dụng công nghệ phát điện tận dụng nhiệt khí thải là tận dụng nhiệt thừa để phát điện tại các dây chuyền sản xuất xi măng nhằm tự cung cấp một phần điện tiêu thụ, đồng thời giảm lượng phát thải bụi và khí CO2.
Nguồn điện phát ra được hòa đồng bộ vào lưới điện của các nhà máy. Hệ thống trạm phát điện tận dụng nhiệt khí thải được thiết kế, lắp đặt không làm ảnh hưởng đến quá trình vận hành bình thường của dây chuyền sản xuất clinker.
Có 9/10 doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) dự kiến triển khai lắp đặt, vận hành hệ thống tận dụng nhiệt khí thải để phát điện (hệ thống WHR). Theo tính toán, các dự án tận dụng nhiệt khí thải đang triển khai có tổng công suất lắp đặt dự kiến khoảng 71,45 MW, tổng công suất phát điện dự kiến khoảng 63,4 MW.
Trong khi đó, mục tiêu của chiến lược sử dụng rác thải làm nhiên liệu thay thế là đẩy mạnh phát triển kinh tế tuần hoàn để sử dụng tiết kiệm tài nguyên không tái tạo và giảm phát thải ra môi trường. Để hiện thực hóa mục tiêu nêu trên, Vicem đã nghiên cứu xử lý chất thải sinh hoạt và sử dụng chất thải thông thường làm nhiên liệu thay thế trong nhà máy sản xuất xi măng. Hiện, Vicem đang áp dụng công nghệ đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng tại các đơn vị thành viên, thu về năng suất rất cao.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, Vicem đề xuất Chính phủ, Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định hiện hành đối với việc xử lý chất thải, đồng xử lý chất thải trong sản xuất xi măng; Xem xét từng bước thí điểm xây dựng thị trường chất thải. Vụ Vật liệu Xây dựng cũng đề nghị các Bộ, ngành tiếp tục nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp.
Kính gửi: Quý Công ty
Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam trân trọng kính mời Quý công ty có quan tâm, có năng lực tham gia chào giá gói thầu Khảo sát, tư vấn, thiết kế, cung cấp hàng hóa và thi công nghiệm thu đóng điện Dự án Xóa T trạm 110kV Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam E24.10 theo hình thức EPC chào giá cạnh tranh, sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam.
– Tên gói thầu (EPC): Khảo sát, tư vấn, thiết kế, cung cấp hàng hóa và thi công nghiệm thu đóng điện dự án Xóa T trạm110kV Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam E24.10
– Chủ đầu tư: Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam.
– Nguồn vốn: Vốn chủ sở hữu của Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam.
– Vị trí: Thôn Nam Công, Thanh Thủy, Thanh Liêm, Hà Nam
– Hiện trạng mặt bằng: Trạm E24.10 đang hoạt động
– Quy mô (loại công trình và chức năng): Xóa T đấu nối vào đường dây
– Phạm vi công việc của gói thầu: Khảo sát, tư vấn, thiết kế, cung cấp hàng hóa và thi công nghiệm thu đóng điện dự án Xóa T trạm110kV Công ty cổ phần Vissai Hà Nam E24.10
– Thời hạn hoàn thành: 10 tháng
– Hồ sơ chào giá bao gồm: Phương án kỹ thuật, năng lực và giá. Chủ đầu tư sẽ lựa chọn Nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu (kỹ thuật và năng lực) và có giá hợp lý.
Nhà thầu tham gia chào giá gói thầu nêu trên liên hệ với Chủ đầu tư để liên hệ khảo sát và cung cấp thông tin. Thông tin chi tiết liên hệ: Mr. Thái Văn Luân. Điện thoại: 0979 933 454.
Thông tin chi tiết theo file kèm !
Hồ sơ chào giá để trong phong bì dán kín và gửi về:
Địa chỉ: Lô C7, khu công nghiệp Gián Khẩu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
Người nhận: Mr. Thái Văn Luân. Điện thoại: 0979 933 454.
Thời hạn nộp hồ sơ chào giá: trước 16h00, ngày 10/12/2024.
Công ty Cổ phần Vissai Hà Nam kính mời các đơn vị quan tâm nộp hồ sơ chào giá theo thời gian và địa điểm đã nêu.
Mẫu hồ sơ mời thầu :https://drive.google.com/drive/folders/14hhl45aHhHwx7NKZ_jrgmg6rO9-R6zGa?usp=sharing
Công Ty Cổ Phần Xi Măng Đồng Bành Thông Báo Tuyển Dụng Tháng 8 Năm 2024 các vị trí sau:
Nhân Viên Vật tư: 02 người
Nhân Viên thị trường: 02 người
Nhân Viên VH ĐHTT 05 người
Chi tiết thông tin tuyển dụng như sau:
Công ty cổ phần xi măng Sông Lam 2 thông báo tuyển dụng các vị trí sau:
1. Nhân viên lái máy – Mỏ – Đội xe
2. Nhân viên Phòng quản lý chất lượng
3. Nhân viên Phòng điều hành trung tâm
4. Nhân viên sửa chữa điện – Phòng cơ điện
5. Nhân viên lập trình PLC – Phòng cơ điện
Chi tiết thông tin tuyển dụng sau:
Công ty Cổ phần Xi măng Đồng Bành thông báo tuyển dụng nhân sự tháng 7 năm 2024 như sau:
05 nhân viên vận hành phòng Điều hành trung tâm chi tiết như sau:
Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại Việt Supply thuộc Tập đoàn The Vissai (Ninh
Bình) cần tuyển:
– 03 nhân viên Xuất nhập khẩu;
– 03 nhân viên thống kê tổng hợp, văn phòng;
– 10 nhân viên kinh doanh;
– 05 nhân viên dự án;
– 03 nhân viên kế toán.
Địa điểm làm việc:
– Tại văn phòng Hà Nội: Tòa VCCI Tower, tầng 20 – Số 09, Đào Duy Anh, Quận Đống
Đa, Hà Nội.
– Tại văn phòng Ninh Bình: Lô C7, KCN Gián Khẩu, Gia Trấn, Gia Viễn, Ninh Bình.
Yêu cầu cụ thể như sau:
Tập đoàn The Vissai cần tuyển các vị trí sau:
– Nhân viên Trade Marketing: 15 người
– Nhân viên Hỗ trợ kinh doanh: 01 người
Chi tiết về yêu cầu tuyển dụng như sau:
Công Ty Cổ Phần Vissai Ninh Bình Thông Báo Tuyển Dụng các vị trí việc làm chi tiết như sau:
• Đối với Bộ Tài Chính: Báo cáo Chính phủ sớm trình Quốc hội thông qua việc bỏ thuế xuất khẩu với clinker. Còn trong ngắn hạn, nếu chưa bãi bỏ, Hiệp hội Xi măng đề nghị Bộ Tài chính trình Chính phủ cho giữ nguyên thuế xuất khẩu với clinker trong 2 năm tiếp theo là 5% và được khấu trừ VAT.
• Đối với Ngân hàng Nhà nước: Đề nghị xem xét, nghiên cứu và chỉ đạo các ngân hàng giãn nợ, giảm lãi suất cho các doanh nghiệp xi măng; ưu tiên các doanh nghiệp xi măng được vay vốn lưu động và không khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào dự án xi măng tại Việt Nam.
• Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường: Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo có chính sách khuyến khích về tài chính, thủ tục, thuế, phí đối với việc đầu tư, vận hành các thiết bị đồng xử lý, tái chế các chất thải trong nhà máy xi măng. Ban hành chính sách miễn, giảm, khấu trừ chỉ tiêu phát thải khí nhà kính đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiên liệu thay thế là rác thải, chất thải trong sản xuất.
• Đối với Bộ Công thương: Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xuất khẩu, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam, tránh các rủi ro phát sinh từ các nước nhập khẩu…
Công Ty Cổ Phần Vissai Ninh Bình Tuyển dụng 01 Lái xe Buýt, Chi tiết thông tin như sau: