Hội nghị thúc đẩy hợp tác, khắc phục khó khăn của ngành xi măng tổ chức tại khách sạn The Vissai
Khó khăn lớn nhất của toàn ngành là hợp tác duy trì sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, bao gồm tiêu thụ sản phẩm trong nước và hợp tác xuất khẩu clinker – xi măng.
I. Sản xuất và tiêu thụ xi măng
Những khó khăn của nền kinh tế 5 tháng đầu năm 2012 đã tác động nghiêm trọng đến mọi hoạt động của ngành công nghiệp xi măng. 5 tháng đầu năm 2012 sản xuất xi măng đạt khoảng 19,000 triệu tấn, giảm 16,80% so với cùng kỳ năm 2011 (22,200 triệu tấn), tiêu thụ xi măng đạt khoảng 19,000 triệu tấn giảm 7,8% (20,500 triệu tấn) so với cùng kỳ năm 2011. Sản xuất và tiêu thụ giảm, nhưng ngược lại, năng lực sản xuất của toàn ngành (công suất thiết kế, sản lượng) lại tăng khoảng 10% so với năm 2011, do cao trào đầu tư xi măng đã khởi động từ những năm gần đây chưa hãm lại được. Năm 2012 toàn ngành xi măng có công suất thiết kế khoảng 70 triệu tấn, sản lượng dự kiến đạt từ 60 đến 62 triệu tấn, trong khi đó:
Nhu cầu tiêu thụ nội địa năm 2012 dự kiến khoảng 47 – 48 triệu tấn
Phấn đấu xuất khẩu 7 – 8 triệu tấn
∑ 54 ÷ 56 triệu tấn
Dư thừa khoảng 6 triệu tấn.
Những nguyên nhân gây nên tình trạng sản xuất và tiêu thụ suy giảm gồm:
1.Do thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ, giảm đầu tư công v.v…do thị trường bất động sản đóng băng, do sức mua của nền kinh tế giảm nên sức tiêu thụ xi măng cũng giảm theo.
2.Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, suy giảm, nhưng ngành xi măng những năm gần đây lại đầu tư quá mạnh và ồ ạt nên công suất thiết kế và năng lực sản xuất tăng vượt cả nhu cầu, dẫn đến tình trạng dư thừa xi măng. Từ năm 2011 đến nay, ngành xi măng đã đẩy mạnh xuất khẩu clinker, xi măng, coi như một giải pháp tình thế để giải quyết một phần tình trạng dư thừa xi măng. Tuy nhiên giải pháp xuất khẩu cũng không phải là một giải pháp có hiệu quả kinh tế đối với xi măng Việt Nam. Dự báo, tình hình dư thừa xi măng còn tiếp tục xẩy ra trong những năm tới, nếu chúng ta không có những giải pháp quyết liệt, như kích cầu tiêu thụ xi măng, rà soát điều chỉnh lại quy hoạch đầu tư phát triển xi măng theo hướng giảm, hoãn hoặc ngừng hẳn một số dự án xi măng.
II. Hợp tác để vượt qua những khó khăn
Khó khăn lớn nhất của toàn ngành là hợp tác duy trì sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, bao gồm tiêu thụ sản phẩm trong nước và hợp tác xuất khẩu clinker – xi măng.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn là cung lớn hơn cầu trong xu thế giá đầu vào liên tục tăng như:
– Than từ năm 2011 đến nay đã tăng 170% .
– Điện từ năm 2011 đến nay đã tăng 19%
– Dầu từ năm 2011 đến nay đã tăng 40%.
Lãi suất ngân hàng quá cao, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ thay đổi, tiếp cận các nguồn vốn tín dụng rất khó khăn đã làm cho tổng chi phí tài chính chiếm tới từ 25 tới 30% giá thành sản phẩm.
Than là nguồn năng lượng quan trọng đối với sản xuất xi măng, nhưng từ năm 2011 đến nay, than đã gây nhiều khó khăn cho xi măng. Cụ thể:
Than không chỉ tăng giá, lại còn hạ phẩm cấp, chất lượng than (tăng độ tro, độ ẩm, hạ nhiệt lượng v.v..) như vậy là tăng giá kép. Tại khu vực Tuyên Quang – Thái Nguyên, các nhà máy xi măng thuộc Vinacomin, TKV quản lý được cung cấp than với những điều kiện ưu ái hơn (nhận than tại mỏ gần nhà máy, được thanh toán chậm v.v…) so với các nhà máy xi măng ngoài ngành than, từ đó tạo sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà máy xi măng trong cùng khu vực. Ở những khu vực khác điều kiện thanh toán ngặt nghèo, có những lúc TKV ký hợp đồng cung cấp không đủ than cũng gây khó khăn cho các nhà máy xi măng. Tài chính doanh nghiệp là một khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp xi măng. Từ năm 2011 đến nay các doanh nghiệp xi măng đều phải vay vốn ngân hàng với lãi suất 18-20%, cá biệt có trường hợp trên 20%. Thời điểm 2011, 2012 và một vài năm tới là đỉnh điểm của giai đoạn trả nợ vốn đầu tư. Trong khi đó, sản xuất tiêu thụ suy giảm, tiếp cận nguồn vốn khó khăn.
Phần lớn các doanh nghiệp xi măng từ đầu năm 2012 đến nay đều thua lỗ sản phẩm tồn đọng lớn, một số nhà máy đã ngừng một phần dây chuyền sản xuất, nguy cơ phá sản của một số doanh nghiệp xi măng là hiện hữu. Triển vọng tình hình sản xuất kinh doanh xi măng từ nay đến cuối năm chưa có nhiều chuyển biến tích cực.
Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng như vậy, ngày 22/5/2012 Thường trực Hiệp hội, tổ chức Hội nghị đột xuất giữa các đơn vị lãnh đạo một số công ty xi măng chủ chốt trong và ngoài Hiệp hội để trao đổi bàn bạc nhằm nhìn ra những giải pháp để cùng nhau hợp tác, thống nhất hành động nhằm vượt qua giai đoạn khó khăn khắc nghiệt này.
Thời gian vừa qua do cung lớn hơn cầu, nên một số công ty đã đẩy mạnh tiêu thụ bằng nhiêu hình thức khuyến mại như: thưởng xi măng hiện vật, hỗ trợ phí vận chuyển, giảm giá v.v..Trong xuất khẩu cũng có hiện tượng giảm giá không lành mạnh, chỉ tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài ép giá ta, gây thiệt hại chung cho toàn ngành.
Đã đến lúc các doanh nghiệp sản xuất xi măng cần trao đổi, bàn bạc tìm phương thức hợp tác với nhau trong tiêu thụ sản phẩm theo văn hóa “ Buôn có bạn, Bán có phường” để mọi người cùng thắng, cùng tồn tại và phát triển trên thương trường cạnh tranh khốc liệt này.
Tại hội nghị các ý kiến thảo luận đã tập trung xung quanh một số vấn đề sau đây:
1.Hợp tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm để duy trì sản xuất ở mức hợp lý khoảng 80% công suất thiết kế.
2.Hợp tác đẩy mạnh xuất khẩu clinker và xi măng để năm 2012 đạt khoảng 7-8 triệu tấn với mức giá hợp lý. Xuất khẩu clinker với giá FOB ở mức 36 USD/T trong điều kiện giá đầu vào như hiện nay, đối với phần lớn các doanh nghiệp xi măng, là chưa đủ bù chi phí biến đổi. Vì vậy phải phấn đấu xuất ở mức giá FOB tối thiểu 40 USD/T mới hợp lý.
3.Ở mỗi khu vực các doanh nghiệp cần thống nhất cử ra một doanh nghiệp có đủ tiềm lực, uy tín thương trường làm “Doanh nghiệp dẫn dắt thị trường” để tạo dựng một thị trường có tổ chức.
4.Kiến nghị Nhà nước rà soát lại quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 và định hướng đến năm 2030 cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội, hạn chế tình trạng dư thừa xi măng.
5.Tình hình khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp sản xuất xi măng.
III. Kiến nghịĐể tháo gỡ khó khăn cho ngành xi măng, Hiệp hội xi măng Việt Nam xin kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội một số vấn đề sau đây:
1.Rà soát lại quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng theo QĐ 1488/QĐ-TTg ngày 29/8/2011 cho phù hợp với nhu cầu xi măng trong những năm sắp tới (từ nay đến 2015) để tránh tình trạng dư thừa xi măng .
2.Trước mắt, Quốc hội và Chính phủ có những tháo gỡ cụ thể giúp các doanh nghiệp xi măng giải quyết những khó khăn về tài chính như:
2a. Giãn nợ các khoản vay nước ngoài, cơ cấu lại danh mục nợ.
2b. Khoanh nợ, lùi thời hạn trả nợ các khoản vay trong nước đã đến hạn
2c. Hạ lãi suất cho vay về mức hợp lý 10-12%/năm.
2d. Giảm thuế VAT xuống còn 5% như thời điểm 2008-2009.